Chữ và nghĩa: Họ hàng nhà rắn qua một bài thơ

30/01/2025 07:00 GMT+7 | Văn hoá

Trong tiềm thức dân gian, rắn có rất nhiều đặc tính, phẩm chất khác lạ, biểu hiện qua các áng thơ văn, trong thành ngữ, tục ngữ. Nhân năm con Rắn, tôi sẽ cùng mọi người phân tích những vấn đề liên quan tới họ hàng nhà rắn qua một bài thơ ứng tác của "nhà bác học lớn của Việt Nam thời phong kiến": Lê Quý Đôn (1726 - 1784).

Đó là bài thơ sau này được người đời đặt tên Rắn đầu biếng học mà tác giả của nó là "cậu bé" Lê Quý Đôn. Có một giai thoại, kể rằng, lúc còn nhỏ Lê Quý Ðôn là một cậu bé rất thông minh nhưng tính khí lại ngang tàng, nghịch ngợm. Một lần, cậu bé Đôn trần truồng đi tắm ở ao trong làng. Tình cờ giữa đường cậu gặp một vị quan hỏi thăm vào nhà ông Lê Trọng Thứ. Lê Quý Đôn liền đứng dạng hai chân ra bảo vị quan rằng: "Ðố ông biết chữ gì đây? Nếu ông biết thì tôi sẽ đưa ông vào nhà".

Ông quan không thèm nói gì cả. Lê Quý Ðôn mới cười ầm lên và nói:

- Dễ ợt! Chữ THÁI (大), thế mà cũng không biết!

Thấy cậu bé quá ngỗ ngược, ông quan vừa ngạc nhiên vừa bực bội. Sau hỏi ra ông mới biết đó chính là con Lê Trọng Thứ mà mình đến thăm. Lúc vào trong nhà, ông bèn đem chuyện ấy ra phàn nàn với chủ nhà, có ý trách móc. Lê Trọng Thứ bèn gọi Lê Quý Ðôn (đang ở nhà dưới) lên và mắng: "Mày đúng là thằng rắn mày rắn mặt, phải vịnh một bài thơ tự trách mình, nếu không làm được thì tao đánh đòn thật nặng".

Báo Xuân - Chữ và nghĩa: Họ hàng nhà rắn qua một bài thơ - Ảnh 1.

Ảnh: Thohay.vn

Lê Quý Ðôn vâng lời, khoanh tay làm ngay bài thơ như sau:

Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà

Rắn mà biếng học lẽ không tha

Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ

Nay thét mai gầm rát cổ cha.

Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối

Lằn lưng cam chịu dấu roi tra

Từ rày Trâu, Lỗ chăm nghề học

Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.

Bài thơ ra giọng hối lỗi, tự trách mình nhưng lại cố tình mượn tên một số loại rắn quen thuộc trong cuộc sống, như liu điu, hổ lửa, mai gầm, ráo, thằn lằn, trâu, hổ mang...

Rắn là "động vật thuộc lớp bò sát, có vảy, không chân, di chuyển bằng cách uốn thân" (Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học - NXB Đà Nẵng, 2020). Có rất nhiều loại rắn: rắn giun, rắn lửa, rắn lục, rắn lửa, rắn mối, rắn nước, rắn ráo…  Rắn có rắn lành, rắn độc. Nhưng trong suy nghĩ của mọi người, đã nói đến rắn là nói đến một con vật có ngoại hình ghê gớm, dễ sợ, nguy hiểm (vì có nọc độc). Tục ngữ có câu "Rắn đến nhà chẳng đánh thì quái" (Rắn đến nhà phải đánh cho chết, nếu không đánh nó sẽ biến thành quái).

Bài thơ mở đầu bằng tên "liu điu", một loại rắn ít gặp. Đó là loại rắn nhỏ, sống ở ao hồ, ăn ếch nhái. Vì là rắn nhỏ (nhỏ hơn cả rắn nước - rắn sống ở dưới nước, không có nọc độc, thường ăn cá và ếch nhái) nên liu điu không đáng coi trọng: Trứng rồng lại nở ra rồng/ Liu điu lại nở ra dòng liu điu. Trông câu ca dao này, dân gian đã đánh giá thấp rắn liu điu, coi loại này tầm thường, không cùng "đẳng cấp" với loài rồng cao quý.

Trong câu thơ thứ hai, có tổ hợp "rắn mà biếng học" (được làm căn cứ sau này mọi người đặt tên bài thơ là "Rắn đầu biếng học"). Tiếng Việt có các thành ngữ "Rắn mày rắn mặt", "Rắn đầu rắn mặt" (mượn từ "rắn" đồng âm, nghĩa là: 1) có khả năng chịu đựng được tác dụng của lực cơ học mà không bị biến dạng; 2. có khả năng chịu đựng được những bất lợi về tâm lí mà tinh thần, tình cảm không bị ảnh hưởng, VD: mặt rắn lại chịu đựng, tính tình quá rắn… - Từ điển, đã dẫn) để chỉ ai đó khó lay chuyển, bất chấp sự răn đe, cảnh báo. Rắn đầu biếng học trong bài thơ ám chỉ "cậu bé Lê Quý Đôn cứng đầu không nghe lời người lớn, không chịu học hành"".

"Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ" có nghĩa là "thẹn cho ngọn đèn (trong nhà), xấu hổ cho ngọn lửa (trong bếp), đau cho nỗi lòng mẹ (có đứa con như thế)". Nhưng ngắt ra, ta có từ "hổ lửa" chỉ một loại rắn. Rắn lửa (rhabdophis subminiatus) còn được gọi là rắn hổ lửa là một loài rắn có màu sắc sặc sỡ, phần cổ nổi bật với màu sắc thay đổi từ vàng nhạt đến nâu đỏ (như lửa), còn gọi "rắn bảy màu".

"Nay thét mai gầm rát cổ cha": Hôm nay thì phải thét, ngày mai lại gầm làm cho cha phải rát cả cổ họng. Ta lại "chiết" ra một từ chỉ rắn: mai gầm. Rắn mai gầm (bungarus fasciatus) còn gọi rắn cạp nong hay rắn cạp nia (do trên thân có nhiều khoanh đen trắng xen kẽ, nom như cái cạp nia, cạp nong (cạp: bộ phận buộc hoặc viền xung quanh đồ đan lát, như nong, nia, thúng, mủng… có những đoạn siết bằng dây mây cho chặt).

Báo Xuân - Chữ và nghĩa: Họ hàng nhà rắn qua một bài thơ - Ảnh 2.

Áng thơ rắn đầu đầu biếng học. Ảnh: Thohay.vn

"Ráo mép" là tổ hợp tự do chỉ "mép ráo (hoảnh)" khi ai đó rất giỏi nói năng, bao biện, dối trá (nói cứ như không). "Phường ráo mép" ám chỉ những người "thiên hô bát xát", chỉ khéo nói, xảo ngôn. Nhưng tổ hợp này làm ta liên tưởng từ rắn ráo. Rắn ráo (ptyas korros) là loại rắn cỡ trung bình, khá quen thuộc (ở các vùng nông thôn ta), lưng màu nâu, bụng màu vàng. Đặc biệt rắn này có mắt rất to, quan sát con mồi (chuột bọ, éch nhái) rất nhanh. Dân gian có thành ngữ "Mắt như mắt rắn ráo" để chỉ ai đó có cặp mắt tinh nhanh, liến láo và tính nết cũng vào diện gian giảo, khó tin.

"Lằn lưng cam chịu dấu roi tra". Đấy là khi bị lỗi, cậu bé bị bố mẹ bắt nằm xuống, tra hỏi và sau đó bị phạt ăn roi đến mức "lằn trên lưng". Chữ "lằn" là cách nói gọn, chỉ "thằn lằn", một động vật cũng thuộc nhóm bò sát, xếp cùng với rắn. Chúng ta thường nghe câu thành ngữ "Len lét như rắn mồng năm" (mồng 5 tháng năm âm lịch), dùng để chỉ dáng vẻ khép nép, thái độ sợ sệt của ai đó, không dám đi đứng đàng hoàng. Con rắn (trong thành ngữ) này chính là dùng để ám chỉ thằn lằn: Đảo chân ai chẳng dám chầy/ Thằn lằn len lét ẩn ngày mùng năm (Thiên Nam ngữ lục). Thật tội nghiệp cho họ hàng nhà rắn (trong đó có thằn lằn) là cứ đến ngày mồng 5 tháng năm là bị dân chúng săn tìm và tiêu diệt (vì rắn rết, sâu bọ được coi là những loại gây hại cho người).

"Từ rày Trâu, Lỗ chăm nghề học" làm ta hình dung ra loài rắn hổ trâu. Rắn hổ trâu (ptyas mucosa), còn gọi rắn hổ hèo hay rắn mang thừa. Nói "trâu" vì đây là loại rắn rất to và dài (có con dài tới 2,5m và nặng tới 7kg), màu nâu đất có vằn đen, nom rất dữ tợn...

Bắt đầu từ một lỗi, bị ông bố phạt làm thơ theo chủ đề cho trước (rắn mày rắn mặt), Lê Quý Đôn đã nhanh trí ứng đối một bài thơ "thất ngôn bát cú" theo trường nghĩa "rắn". Cả bài thơ 8 câu là một văn bản có cấu trúc và nội dung hoàn chỉnh, đọc lên nghe trôi chảy, mạch lạc, rất thú vị. Quan thượng thấy cậu bé Ðôn mới ít tuổi mà đã thể hiện năng lực ngôn ngữ, ứng đối bằng thơ rất nhanh, rất thuần thục nên phục lăn. Lê Quý Đôn đã tạ tội với cha và ông khách bằng chính tài sử dụng tiếng Việt tuyệt vời của mình.

Nhà rắn trong một bài thơ

Làm cho khách phải ngẩn ngơ khen hoài.

PGS TS PHẠM VĂN TÌNH

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm