50 năm thống nhất đất nước: Tư duy chiến lược và nghệ thuật quân sự tài tình của Đảng ta

26/03/2025 12:00 GMT+7 | Tin tức 24h

Mùa Xuân năm 1975, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, chấm dứt hơn 20 năm chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược. 

Đại thắng Mùa Xuân 1975 không chỉ là kết quả của lòng yêu nước, ý chí kiên cường và tinh thần chiến đấu bất khuất của Nhân dân Việt Nam, mà còn là minh chứng cho sự đúng đắn trong đường lối chiến lược, nghệ thuật quân sự của Đảng.

Đường lối chiến tranh nhân dân là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt

Ngay từ khi tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Đảng ta đã xác định đường lối chiến tranh nhân dân là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt, lấy Nhân dân làm gốc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sự ủng hộ của quốc tế. Trong đó, lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích) đóng vai trò nòng cốt.

Quan điểm Chiến tranh nhân dân của Đảng được thể hiện rõ qua các nguyên tắc:

- "Chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện", huy động sức mạnh của cả dân tộc vào cuộc chiến, kết hợp chặt chẽ giữa quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.

Theo đó, Đảng ta đã huy động cả dân tộc tham gia kháng chiến. Cùng với lực lượng vũ trang anh dũng chiến đấu trên chiến trường, các tầng lớp Nhân dân từ già trẻ, gái trai đều tham gia bảo vệ, nuôi dưỡng lực lượng cách mạng; thực hiện công tác vận chuyển, tiếp tế hậu cần; xây dựng cơ sở chính trị hay tổ chức nổi dậy ở các vùng kiểm soát của địch... Điều này tạo nên một mạng lưới chiến đấu rộng khắp.

50 năm thống nhất đất nước: Tư duy chiến lược và nghệ thuật quân sự tài tình của Đảng ta - Ảnh 1.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, ngày 30/12/1972, lực lượng nòng cốt cùng quân và dân Thủ đô đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của Mỹ vào Hà Nội. Ảnh: TTXVN

Đặc biệt, Đảng ta đã chỉ đạo kết hợp chặt chẽ giữa quân sự và chính trị, giữa đấu tranh trực diện trên chiến trường với công tác binh vận, ngoại giao, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh bại kẻ thù. Hiệp định Paris năm 1973 là minh chứng tiêu biểu cho đường lối đó. Trên bàn đàm phán, ta kiên trì đấu tranh, giữ vững những điều khoản có lợi cho ta. Trên chiến trường, ta mở Cuộc tiến công chiến lược năm 1972, làm suy yếu lực lượng địch. Khi Mỹ leo thang bằng chiến dịch B-52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng, quân và dân ta kiên cường chiến đấu, làm nên chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" lịch sử. Chiến thắng này đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của địch, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973, tạo tiền đề cho Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

- "Lấy nhỏ đánh lớn, lấy yếu thắng mạnh", phát huy lối đánh linh hoạt, sáng tạo, tận dụng địa hình, địa vật để gây tổn thất cho địch.

Nguyên tắc này thể hiện rõ nét qua cách đánh du kích của quân ta. Ngay từ năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết cuốn "Cách đánh du kích" gồm 13 chương với nội dung ngắn gọn, dễ hiểu để cán bộ, Nhân dân nhận thức đúng và thực hiện được. Trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, Việt Nam đã áp dụng rất tốt cách đánh này.

Đặc biệt, trong thế đối đầu với một cường quốc quân sự vượt trội về vũ khí, trang thiết bị và tiềm lực kinh tế như đế quốc Mỹ, Đảng ta đã vận dụng triệt để lối đánh du kích với phương châm linh hoạt, sáng tạo. Quân dân ta tận dụng mọi điều kiện để chiến đấu: thoắt ẩn, thoắt hiện, sử dụng chông sắt, chông tre, ong vò vẽ, mìn, lựu đạn gài, giàn thun bắn lựu đạn... Lối đánh du kích đã được triển khai rộng khắp, tận dụng địa hình rừng núi, sông ngòi, làng mạc để tấn công bất ngờ, làm tiêu hao sinh lực địch, gây tâm lý hoang mang và bào mòn ý chí chiến đấu của quân Mỹ-ngụy.

Các chiến thuật như "vây điểm, diệt viện", "bám thắt lưng địch mà đánh", "công đồn, đả viện" đã được áp dụng hiệu quả, tạo nên những chiến thắng vang dội dù lực lượng của ta nhỏ hơn rất nhiều so với đối phương. Đặc biệt, chiến tranh du kích không chỉ được triển khai ở vùng nông thôn mà còn phát triển mạnh trong lòng đô thị, hình thành các đội biệt động với những trận đánh gây chấn động như cuộc tấn công vào Đại sứ quán Mỹ trong Tết Mậu Thân 1968.

50 năm thống nhất đất nước: Tư duy chiến lược và nghệ thuật quân sự tài tình của Đảng ta - Ảnh 2.

Chiến sĩ phân đội 6, bộ đội tên lửa bảo vệ thủ đô chiến đấu dũng cảm, mưu trí góp phần cùng quân dân Hà Nội bắn rơi nhiều máy bay B-52 của Mỹ trong những ngày cuối tháng 12/1972. Ảnh: Văn Bảo - TTXVN

Liên tục điều chỉnh chiến lược cho phù hợp với tình hình thực tiễn

Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã liên tục điều chỉnh chiến lược cho phù hợp với thực tiễn, kịp thời đưa ra những quyết sách mang tính đột phá. Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng thể hiện qua từng giai đoạn, với những bước đi chiến lược phù hợp, góp phần quyết định thắng lợi cuối cùng.

Giai đoạn 1954-1960: Sau Hiệp định Genève, miền Nam rơi vào ách thống trị của chế độ tay sai Ngô Đình Diệm, tình hình hết sức cam go. Trước thực tế đó, Đảng chủ trương đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, từng bước gây dựng lực lượng, chuẩn bị điều kiện cần thiết để chuyển sang thế tiến công trong tương lai. Đây là giai đoạn mang tính chất đặt nền móng cho cuộc đấu tranh lâu dài.

50 năm thống nhất đất nước: Tư duy chiến lược và nghệ thuật quân sự tài tình của Đảng ta - Ảnh 3.

Nhằm chi viện cho chiến trường miền Nam, ngày 19/5/1959, Bộ Chính trị đã quyết định mở đường Trường Sơn, xây dựng tuyến giao thông vận tải quân sự nối liền hai miền Nam Bắc. Trong ảnh: Giai đoạn đầu hoạt động trên con đường bí mật xuyên rừng rậm, núi cao, trên tuyến vận tải chiến lược này, quân ta đã vận chuyển thô sơ bằng gùi, xe thồ, nhỏ lẻ với cung ngắn. Ảnh: TTXVN

Giai đoạn 1961-1968: Khi Mỹ leo thang chiến tranh, đưa quân viễn chinh vào miền Nam, cục diện chiến trường có những thay đổi lớn. Để đối phó với tình thế này, Đảng quyết định đẩy mạnh chiến tranh du kích, nhằm đánh bại chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" và sau đó là "Chiến tranh cục bộ" của Mỹ. Đỉnh cao của giai đoạn này là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, một đòn giáng mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ, làm thay đổi cục diện chiến tranh, buộc Mỹ phải xuống thang và từng bước rút quân.

Giai đoạn 1969-1973: Sau những thắng lợi trên chiến trường, Đảng ta tiếp tục phát huy sức mạnh trên mặt trận ngoại giao. Hiệp định Paris 1973 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng khi Mỹ buộc phải rút quân, tạo ra thế và lực mới để cách mạng miền Nam bước vào giai đoạn quyết định. Khi quân đội Mỹ không còn hiện diện, chính quyền Sài Gòn rơi vào thế suy yếu, tạo điều kiện thuận lợi để ta chuẩn bị cho tổng tiến công giải phóng miền Nam.

Giai đoạn 1973-1975: Nắm bắt tình hình thực tiễn, Đảng nhận định rằng chính quyền Sài Gòn ngày càng rệu rã, mất dần khả năng kiểm soát. Ban đầu, kế hoạch giải phóng miền Nam được vạch ra trong hai năm (1975-1976), nhưng khi thời cơ đến, Đảng kịp thời điều chỉnh, rút ngắn thời gian xuống còn một năm và sau đó là trong vòng một mùa khô. Đây là sự linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược, thể hiện bản lĩnh quyết đoán của Đảng trong những thời điểm mang tính bước ngoặt.

Xây dựng kế hoạch tác chiến chặt chẽ

Nhằm hiện thực hóa kế hoạch giải phóng miền Nam, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã xây dựng một kế hoạch tác chiến chặt chẽ, thể hiện sự nhạy bén trong đánh giá tình hình và tài thao lược trong chỉ đạo chiến lược. Đỉnh cao của nghệ thuật quân sự ấy chính là việc hoạch định và thực thi ba chiến dịch lớn mang tính quyết định, tạo nên sức mạnh tổng hợp, khiến chính quyền Sài Gòn sụp đổ trong một thời gian ngắn hơn so với dự kiến ban đầu.

Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4/3 đến 3/4/1975): Nhằm tạo đột phá chiến lược, ta chủ động đánh vào Buôn Ma Thuột, khiến địch bất ngờ, rơi vào thế bị động. Thắng lợi vang dội này làm rung chuyển hệ thống phòng thủ của địch trên toàn chiến trường, buộc quân ngụy phải tháo chạy khỏi Tây Nguyên trong hỗn loạn, tạo điều kiện thuận lợi để ta tiếp tục đẩy mạnh thế tiến công.

50 năm thống nhất đất nước: Tư duy chiến lược và nghệ thuật quân sự tài tình của Đảng ta - Ảnh 4.

Phương tiện chiến tranh của địch ở chi khu quân sự kiên cố Đức Lập rơi vào tay quân Giải phóng. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Chiến dịch Trị Thiên-Huế (từ ngày 5 - 26/3/1975) và Chiến dịch Đà Nẵng (từ ngày 26 - 29/3/1975): Nắm bắt tâm lý rút lui của địch sau thất bại ở Tây Nguyên, ta nhanh chóng triển khai lực lượng tiến công Huế, sau đó tiến vào Đà Nẵng. Chỉ trong thời gian ngắn, toàn bộ miền Trung đã được giải phóng, đẩy quân ngụy vào tình thế khủng hoảng nghiêm trọng.

Chiến dịch Hồ Chí Minh (26-30/4/1975): Trước tình hình địch suy yếu đến cực độ, Đảng quyết định mở trận đánh cuối cùng vào Sài Gòn. Ta huy động lực lượng áp đảo, tổ chức năm cánh quân tiến vào thành phố theo đúng kế hoạch tác chiến. Đỉnh điểm là vào trưa ngày 30/4/1975, xe tăng quân giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc Lập, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.

Như vậy, nghệ thuật chỉ đạo chiến lược của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được thể hiện ở những yếu tố then chốt: xác định đúng thời điểm để tổng tiến công, đánh nhanh, thắng nhanh, tránh sự can thiệp của Mỹ. Kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự và nổi dậy quần chúng, tạo nên sức mạnh tổng hợp. Bố trí lực lượng hợp lý, tấn công vào những điểm yếu chiến lược của địch, khiến địch suy sụp nhanh chóng. Chính sự lãnh đạo tài tình đó đã đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi trọn vẹn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Có thể thấy, đại thắng Mùa Xuân 1975 là minh chứng hùng hồn cho sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng trong việc hoạch định chiến lược quân sự, tổ chức và chỉ đạo cuộc chiến tranh cách mạng. Tư duy chiến lược đúng đắn, sự vận dụng linh hoạt các hình thức tác chiến và khả năng nắm bắt thời cơ chính trị, quân sự của Đảng đã tạo nên thắng lợi trọn vẹn, đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất.

Hiện nay, những bài học về tư duy chiến lược và nghệ thuật quân sự của Đảng vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục là kim chỉ nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Minh Duyên/TTXVN

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm